1.Đàn tỳ bà(琵琶-pípá)
.
2.Kèn(笙-shēng)
3.Đàn nhị(二胡-èrhú)
Đàn nhị, còn được gọi là “Hồ Cầm”, xuất hiện vào thời nhà Đường và được gọi là “Hề Cầm”, đến thời nhà Tống nó được gọi là “Kê Cầm”. Người ta thường tin rằng Hồ Cầm ngày nay phát triển từ Hề Tần và có giờ đây đã trở thành một nhạc cụ dây độc nhất vô nhị ở nước tôi. Nó phù hợp cho cả hai. Nó có thể diễn đạt nội dung sâu sắc, buồn bã và cũng diễn tả một quan niệm nghệ thuật tuyệt vời.
Đàn nhị là một trong những nhạc cụ dây cung (nhạc cụ dây) chính trong gia đình nhạc cụ dân tộc Trung Quốc. Thuật ngữ Hồ cầm xuất hiện vào thời nhà Đường, vào thời điểm đó các dân tộc khác nhau ở phía tây và phía bắc được gọi là người Hồ, Hồ Cầm là tên gọi chung của một loại nhạc cụ được các dân tộc phía Tây và phía Bắc du nhập vào. Sau triều đại nhà Nguyên và triều đại nhà Minh và nhà Thanh, Hồ Cầm trở thành tên chung cho các nhạc cụ có dây.
4.Sáo Huân / Huyên(埙-xūn)
5.Chuông nhạc (编钟-biānzhōng)
6. Sáo (笛子-dízi)
.
7.Đàn tranh(古筝-gǔzhēng)
Đàn Tranh, một loại nhạc cụ dây gảy, còn được gọi là Hàn Tranh, Tần Tranh , là một loại nhạc cụ dân tộc cổ xưa của dân tộc Hán và được phổ biến khắp Trung Quốc. Sau hàng nghìn năm phát triển, bốn trường phái lớn đã được hình thành: Khánh Gia Tranh, Triều Châu Tranh, Sơn Đông Tranh và Hà Nam Tranh. Thường được sử dụng làm nhạc đệm cho độc tấu, hòa tấu, hòa tấu nhạc cụ, ca hát và nhảy múa, opera và nghệ thuật dân gian. Vì âm vực rộng, âm sắc đẹp, kỹ năng chơi phong phú và khả năng biểu cảm mạnh mẽ nên nó được mệnh danh là “Vua âm nhạc” hay còn được gọi là “Piano phương Đông”, là một trong những nhạc cụ quốc gia độc đáo và quan trọng của Trung Quốc.
Cấu trúc của đàn Tranh bao gồm bảng điều khiển, trụ ngỗng, dây đàn, núi phía trước, đinh dây, hộp điều chỉnh, chân, núi phía sau, các tấm bên, ổ cắm âm thanh, tấm đáy và các lỗ dây. Nó có hình dáng giống như một chiếc loa gỗ hình chữ nhật, khung dây “trụ đàn tam thập lục” (tức là trụ đàn ngỗng) có thể di chuyển tự do, một dây và một nốt sắp xếp theo âm giai ngũ cung.
8.Đàn Sắt (瑟-sè)
Một loại nhạc cụ dây cổ của người Hán , có tổng cộng 25 dây . Hình dáng của các loại nhạc cụ nghi lễ cổ điển nói chung là giống nhau, phần thân nghi lễ hầu hết được làm bằng gỗ nguyên khối. Có bốn dây cung ở cuối. Có những lỗ xâu dây tương ứng ở mặt ngoài của ngọn núi đầu tiên và cuối cùng. Ngoài ra còn có những cây cột gỗ bách đặt dưới dây đàn. Tổng cộng có 12 nghĩa trang được khai quật từ lăng mộ của Hầu tước Yi của nước Tăng. Chúng hầu hết được làm bằng gỗ sồi hoặc gỗ catalpa, với tổng chiều dài khoảng 150 đến 170 cm và chiều rộng khoảng 40 cm. Toàn bộ thân xe được sơn màu sáng.
9. Trống(鼓-gǔ)
Trống xuất hiện tương đối sớm, căn cứ vào những di tích văn hoá được khai quật được phát hiện ngày nay , có thể xác định chiếc trống này có lịch sử khoảng 4.500 năm (lấy chiếu trống đất được khai quật từ ngôi mộ đầu tiên tại di chỉ taosi ở Tương Phần, Sơn Tây làm ví dụ). Vào thời xa xưa, trống không chỉ được sử dụng trong tế lễ, âm nhạc và khiêu vũ mà còn để tấn công kẻ thù, xua đuổi thú dữ, đồng thời là công cụ để báo giờ và gọi cảnh sát. Với sự phát triển của xã hội, trống được sử dụng với nhiều ứng dụng đa dạng hơn, các ban nhạc dân tộc, các vở kịch, nghệ thuật dân gian, ca múa, đua thuyền và múa lân, họp mặt lễ hội, thi đấu lao động, v.v. đều không thể tách rời khỏi nhạc cụ trống. Cấu tạo của trống tương đối đơn giản, gồm 2 phần : vỏ trống và thân trống. Da trống là thân phát âm của trống, thường được bọc bằng da động vật trên khung trống, được đánh hoặc vỗ để rung và tạo ra âm thanh. Trống Trung Quốc có nhiều loại, bao gồm trông lưng , trống lớn, trống lọ hoa,v.v.
Ý nghĩa văn hóa của trống rất rộng và sâu sắc, âm thanh hùng tráng của trống đồng hành mật thiết với con người, vùng hoang dã cổ xưa đang từng bước tiến tới nền văn minh.
10.Tiêu(箫-xiāo)
Nguồn gốc của sáo có thể bắt nguồn từ thời cổ đại. Khảo cổ hoc Trung Quốc cho thấy máy tạo âm thanh bằng xương có niên đại hơn 7.000 năm đã được tìm thấy trong số các di tích văn hóa được khai quật, mà các nhà khảo cổ học gọi là ” còi xương” ( di tích văn hóa được khai quật ở Chiết Giang , hiện thuộc bảo tàng Chiết Giang), được chia thành Động tiêu và Cầm tiêu, cả hai đều là ống đơn và thổi thẳng đứng, là một loại nhạc cụ gió rất cổ của người Hán. Sáo có lịch sử lâu đời, âm sắc êm dịu, êm dịu, trầm lắng và trang nhã, thích hợp cho độc tấu và hoà tấu . Nó thường được làm bằng tre sáu lỗ và sáo tám lỗ.
Ngoài ra còn có đàn Hạc (箜篌-kōnghóu)
Là một loại nhạc cụ gảy truyền thống của Trung Quốc . Vào thời xa xưa, ngoài việc được sử dụng trong âm nhạc cung đình, nó còn được phổ biến trong nhân dân . Thời xưa , đàn hạc có ba loại : đàn ngang, đàn dọc và đàn hạc đầu phượng, dây thường được buộc vào một khung hở và gảy bằng ngón tay.
.
Cổ Cầm(古琴-gǔqín)
Là một nhạc cụ dây gảy cổ có bảy dây và không có phím đàn, với tư cách là một nền văn hóa đặc biệt, tổng hợp và thể hiện những tư tưởng phương Đông cổ xưa và huyền bí, là một loại nhạc cụ gảy truyền thống của Trung Quốc có lịch sử hơn ba nghìn năm, là một trong tám âm. Cổ Cầm có âm vực rộng, âm sắc sâu lắng và âm thanh kéo dài là loại nhạc cụ cao quý nhất trong văn hóa Trung Quốc….
xem thêm :https://webtiengtrung.com/tu-dai-my-nhan-trong-lich-su-trung-quoc-